Chính Sách Dân Tộc Của Đảng Và Nhà Nước Việt Nam Về Chính Trị

Chính Sách Dân Tộc Của Đảng Và Nhà Nước Việt Nam Về Chính Trị

Tại phiên họp tổng kết hoạt động của Ủy ban sửa đổi Hiến pháp, đồng chí Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: "Ngày 28-11-2013, với tuyệt đại đa số đại biểu Quốc hội tán thành, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam. Đây là sự kiện chính trị, pháp lý đặc biệt quan trọng, đánh dấu một bước tiến mới trong lịch sử lập pháp của nước ta, là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, của các vị đại biểu Quốc hội, phản ánh được ý chí nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân, khẳng định sức mạnh đại đoàn kết toàn dân".

Chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa đối với các dân tộc người thiểu số

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật […]

Lúc sinh thời, cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: Thực chất của vấn đề dân tộc là văn hóa và cán bộ. Giải quyết vấn đề dân tộc ở nước ta suy cho cùng là làm cho các dân tộc được sống trong hòa bình, tự do, được nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Ai là thành phần có vai trò quan trọng trước mắt và lâu dài đối với sự phát triển của các dân tộc thiểu số nói chung và văn hóa nói riêng nếu như không phải là đội ngũ cán bộ người dân tộc thiểu số. Văn hóa là quan điểm, là nội dung chính sách, là hệ quả kiểm chứng thước đo của các loại hình chính sách (kinh tế, xã hội, môi trường, cán bộ, an ninh, quốc phòng….) của Đảng và Nhà nước đối với các dân tộc thiểu số. Vì lẽ đó mà chính sách của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực văn hóa có một v

Quan điểm của Đảng về xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc: Đó là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Cộng đồng 54 dân tộc (1 dân tộc đa số và 53 dân tộc thiểu số) sống trên đất nước ta đều có những giá trị văn hóa mang các sắc thái riêng được bổ sung cho nhau, làm phong phú cho nền văn hóa Việt Nam. Các thành tựu văn hóa của các dân tộc anh em góp phần củng cố sự thống nhất dân tộc – cơ sở để giữ vững sự bình đẳng  và đại đoàn kết các dân tộc và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em.

Trong kháng chiến chống Pháp, Mỹ dành độc lập dân tộc, trong xây dựng đất nước thời bình, hội nhập và phát triển toàn cầu hóa hiện nay, Đảng và Nhà nước ta luôn ý thức và coi trọng văn hóa quốc gia, văn hóa tộc người trong phát triển. Đồng thời với các quan điểm, chính sách giải quyết các vấn đề quân sự, kinh tế, ngoại giao… thì văn hóa được nhìn nhận với tư cách là “soi đường cho quốc dân đi” (Hồ Chí Minh). Văn hóa các dân tộc thiểu số là một bộ phận của văn hóa quốc gia, là kho vốn vô giá tạo dựng đặc điểm văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Văn hóa các dân tộc thiểu số là tài nguyên tạo nên động lực tinh thần mạnh mẽ trong công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển đất nước, hội nhập quốc tế hiện nay. Qua các giai đoạn lịch sử, đặc biệt trong thời kỳ đối mới từ 1986 đến nay Đảng và Nhà nước đã ngày càng có những chính sách cụ thể sát hợp về văn hóa các dân tộc thiểu số trong phát triển.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội XII của Đảng gần đây tiếp tục khẳng định và làm rõ: “Trong mọi hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội đều phải đề cao nhân tố văn hoá, con người. Mọi hoạt động văn hoá, từ bảo tồn, phát huy các di sản lịch sử, văn hoá; phát triển văn học, nghệ thuật, báo chí, xuất bản đến bảo tồn, phát huy văn hoá các dân tộc thiểu số, văn hoá tôn giáo, xây dựng thiết chế văn hoá,… đều phải phục vụ thiết thực sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hoá, con người.”

53 dân tộc thiểu số với kho tàng văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, phong phú và đa dạng bao gồm: Kiến trúc, trang phục, ẩm thực, phong tục tập quán, lễ hội truyền thống, dân ca, dân nhạc, dân vũ,… có thể xem văn hóa các dân tộc thiểu số như “bức tranh thổ cẩm” được chính đồng bào thêu dệt tinh tế và tươi màu rực rỡ bởi những nét văn hóa đậm đà bản sắc của chính cộng đồng dân tộc mình. Đời sống kinh tế ở vùng dân tộc thiểu số và miền núi trong thời gian 15 năm qua đã từng bước được nâng cao do có sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các cơ chế chính sách đặc thù, tuy vậy vùng miền núi và dân tộc thiểu số tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém. Mặc dù đời sống kinh tế của đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn so với mặt bằng chung của cả nước, song 53 dân tộc thiểu số với rất nhiều nét văn hóa đặc sắc, phong phú từ đó góp phần tạo nên đời sống  văn hóa bản sắc và sinh động.

Nghị quyết “Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” mà Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII (1998) là Nghị quyết có ý nghĩa chiến lược, chỉ đạo quá trình xây dựng và phát triển sự nghiệp văn hóa cũng như công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số ở nước ta. Có thể khẳng định rằng, trong 15 năm qua các nhiệm vụ đặt ra trong Nghị quyết đã được đồng bộ triển khai và đạt được những hiệu quả rất đáng khích lệ. Đối với công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số cũng có những bước tiến quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế, sự giao lưu và giao thoa văn hóa cũng diễn ra mạnh mẽ, nhưng vẫn đảm bảo tiên tiến, đậm đà bản sắc.

Trong thời ký đổi mới, vấn đề văn hóa quốc gia nói chung và văn hóa các dân tộc thiểu số nói riêng được Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII định hướng và tạo nên luông sinh khí mới chấn hưng các giá trị, bản sắc văn hóa các dân tộc. Các bộ, ban ngành chức năng, chính quyền các cấp đã triển khai, cụ thể các quan điểm, nhiệm vụ thành nhiều chính sách văn hóa cụ thể nói chung và ở vùng dân tộc thiểu số nói riêng. Bộ Văn hóa Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, thể thao và Du lịch) đã cụ thể thành những nhiệm vụ trọng tâm về công tác văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số miền núi thể hiện qua hệ thống văn bản trọng tâm trong từng giai đoạn. Các vấn đề chính sách được tập trung vào các vấn đề:

–  Công tác Văn hóa – Thông tin, Đề án xe văn hóa – thông tin lưu động tổng hợp, Công tác văn hóa thông tin biên giới, bờ biển, vùng Tây Nguyên, vùng đổng băng sông Cửu Long, 6 tỉnh đặc biệt khó khăn  miền núi phía Bắc;

– Xây dựng huyện điểm ở miền núi, vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn làng, bản buôn các dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn;

– Đề án bảo tồn văn hóa các dân tộc thiểu số;

– Phủ sóng phát thanh, truyền hình vùng dân tộc thiểu số;

– Bảo tồn tiếng nói chữ viết các dân tộc;

– Đưa các ấn phẩm, hoạt động văn hóa vào vùng đồng bào các dân tộc;

– Thành lập các hội nghiên cứu, bảo tồn văn hóa, văn nghệ các dân tộc;

– Thành lập các thiết chế văn hóa, bảo tàng Văn hóa các dân tộc;

– Phát triển du lịch văn hóa vùng đồng bào các dân tộc thiểu số;

– Đào tạo tri thức, nguồn lực con người các dân tộc thiểu số;

– Xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số…

– Coi  trọng và phát huy vai trò của người dân – chủ thể của văn hóa.

Nhìn chung các chính sách văn hóa trên được các Bộ ban ngành, cơ quan Trung ương, chính quyển các cấp quan tâm triển khai và mang lại hiệu quả quan trọng, tạo nên diện mạo mới của văn hóa các dân tộc thời kỳ đổi mới với những thành quả được đánh giá trong văn kiện quan trọng của Đảng, Nhà nước và các địa phương. Tuy nhiên bên cạnh đó đồng thời cũng đặt ra những vấn đề cần được quan tâm tâm trong giai đoạn mới.

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số còn nhiều thực trạng cần được khắc phục nhằm thực hiện tốt hơn trong thời gian tới, trong đó có thể nêu lên một số thực trạng cấp bách như sau:

Việc điều tra, nắm bắt thực trạng về di sản văn hóa các tộc người thiểu số và vùng miền chưa thường xuyên, chưa kịp thời đầy đủ, chưa xây dựng được bản đồ quy hoạch, kế hoạch bảo tồn, phát huy, phát triển văn hóa các tộc người và vùng miền sát thực cho từng giai đoạn nên còn mang tính định hướng chung, thiếu tính định lượng cụ thể…

Chưa thể chế hóa những chủ trương, chính sách của đảng, nhà nước trong công tác bảo tồn, phát huy di sản văn hóa truyền thống các tộc thiểu số, đặc biệt là những dân tộc có số dân rất ít hoặc ở những  vùng đặc biệt khó khăn đang có nguy cơ cao bị đồng hóa, mất bản sắc…

Có nhiều di sản văn hoá đặc sắc của các tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, lập hồ sơ để tôn vinh công nhận là là di sản cấp tỉnh hoặc cấp quốc gia; đa số nghệ nhân của các tộc thiểu số chưa được quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện để phát huy trong việc  bảo tồn những di sản văn hóa mà họ là người nắm giữ nên nhiều giá trị truyền thống  nằm trong những “di sản sống”  đó lần lượt mất đi theo năm tháng…

Việc phục dựng một số sinh hoạt văn hóa truyền thống (lễ hội…) của các dân tộc thiểu số ở nhiều địa phương theo kiểu “sân khấu hóa” tuy có tạo ra được không khí và dư luận trong quần chúng về việc bảo tồn, phát huy di sản văn hóa nhưng lại có thể  làm biến dạng, méo mó phần nào giá trị của di sản…

Việc giới thiệu, quảng bá văn hóa các dân tộc thiểu số theo nhiều mô hình, cấp độ  tuy có lúc có nơi được chú ý, người dân hoan nghênh, phấn khởi nhưng khi có một vài ý kiến cho rằng “quá nhiều” lễ hội lại bị “co” lại khiến không ít người băn khoăn về số phận của những di sản đã và đang có nguy cơ bị lãng quên… Nhiều giá trị văn hóa truyền thống chưa được giới thiệu quảng bá để  trả về với chủ thể sáng tạo ra nó là đồng bào các dân tộc nên việc phát huy tác dụng xã hội còn hạn chế…

Việc sử dụng, phát huy và xây dựng đội ngũ cán bộ làm văn hóa ở vùng dân tộc thiểu số, nhất là cán bộ  người các tộc thiểu số tuy có được chú ý hơn nhưng chưa đáp ứng nhu cầu của phong trào, chưa theo quy hoạch lâu dài và ổn định;

Việc xây dựng đời sống văn hóa cơ sở vùng dân tộc thiểu số có nhiều cố gắng, mức hưởng thụ của đồng bào về văn hóa được cải thiện nhưng còn nhiều hạn chế  về mặt bằng về hưởng thụ văn hóa; các thiết chế văn hóa truyền thống chưa được nghiên cứu để bảo tồn, phát huy

Một số cấp ủy, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ các quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp đề ra, có lúc, có nơi chưa thống nhất, đồng bộ nên nhiều phong trào thiếu tính thiết thực, chưa thật sự thấm sâu vào các lĩnh vực đời sống xã hội.

Vùng dân tộc và miền núi, tỷ lệ hộ nghèo còn cao so với bình quân chung của cả nước, kết cấu hạ tầng còn nhiều yếu kém, một số tập tục lạc hậu có xu hướng phát triển. Bản sắc văn hóa của các dân tộc thiểu số chưa được phát huy đúng mức, mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào còn thấp.

Nguồn lực đầu tư để bảo tồn, phát huy và phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số mỏng, mang tính bình quân, dàn trải, phân tán, nhỏ giọt thiếu kịp thời, tập trung, đồng bộ. Một số chủ trương, kế hoạch, dự án đã xây dựng và phê duyệt không được thực hiện hoặc chậm  tiên độ, không  đến nơi đến chốn, hiệu quả không cao.

Nhiều di sản văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số chưa được nghiên cứu, đánh giá một cách bài bản, thống nhất, chưa được tôn vinh xứng đáng;

Cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động văn hoá ở vùng dân tộc thiểu số còn quá nghèo nàn, lạc hậu.

Phong trào văn hoá, văn nghệ ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số chưa phát triển đồng đều cả về số lượng và chất lượng. Nhiều lúc, nhiều nơi hoạt động cầm chừng do thiếu cán bộ có kinh nghiệm tổ chức và hiểu biết nghiệp vụ, chưa có sự hỗ trợ cần thiết của Nhà nước nên khó phát triển bền vững.

Đội ngũ cán bộ làm công tác văn hóa ở cơ sở đa số chưa được quy hoạch, đào tạo chuyên môn nghiệp vụ nên trình độ còn hạn chế, hiệu quả công tác chưa cao.

Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” ở vùng dân tộc thiểu số, xây dựng làng, bản, buôn, phum, sóc, thôn, gia đình văn hóa còn gặp nhiều khó khăn, chất lượng chưa cao do nhiều nguyên nhân: nghèo, địa bàn khó khăn, phức tạp, còn dập khuôn, máy móc, cứng nhắc, các tiêu chí chưa chú ý đến đặc điểm văn hóa truyền thống, thiếu vận dụng linh hoạt sáng tạo cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng vùng, từng dân tộc…

Chính sách văn hóa đối với các dân tộc thiểu số ở nước ta là một bộ phận quan trọng, tất yếu của việc xây dựng, bảo tồn, phát huy giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên trong xu thế, vận động, phát triển của đất nước các vấn đề chính sách không chỉ được soi sáng bởi các quan điểm của Đảng mà còn chịu tác động của nhiều yêu tố văn hóa, kinh tế, xã hội trong nước và quốc tế. Đây cũng là thực trạng đặt ra nhiều vấn về lý luận và thực tiến cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện. Đó cũng là yêu cầu đặt ra đối với ngành Khoa học xã hội và Nhân văn, của viện Hàn lâm KHXH và cơ quan ban ngành hữu quan. Vấn đề cần được sự quan tâm hợp tác nghiên cứu cùa các nhà khoa học và quản lý trong những năm tới với cái nhìn đổi mới trong tư duy quản lý khoa học, hợp tác nghiên cứu mới có được những sản phẩm đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra./.

Tiếp theo Chương trình làm việc tại Phiên họp thứ 38, sáng 8/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển văn hóa giai đoạn 2025-2035.

Xây dựng môi trường văn hóa là nhiệm vụ trọng tâm của ngành văn hóa, thể thao và du lịch. Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, công tác xây dựng môi trường văn hóa cần căn cứ vào các đặc điểm riêng của từng địa phương. Những đặc điểm này đòi hỏi phải có chính sách, nguồn lực và phương thức phù hợp.

Phú Yên nằm trong khu vực duyên hải Nam Trung Bộ có hệ thống giao thông kết nối thuận lợi. Với vị trí địa lý đặc biệt, nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng và hệ thống di sản văn hóa phong phú tạo tiềm năng, lợi thế lớn để phát triển kinh tế du lịch. Thời gian qua, du lịch Phú Yên đang quan tâm đầu tư hạ tầng cơ sở, nỗ lực thực hiện xúc tiến, quảng bá du lịch, từng bước hình thành thương hiệu, trở thành điểm đến hấp dẫn đối với các nhà đầu tư và du khách trong và ngoài nước. Vùng đất “hoa vàng trên cỏ xanh” hiện đang được ví như một “nàng công chúa đang thức giấc” với nhiều tiềm năng, lợi thế vốn có đang được khai thác, bảo tồn để phát triển du lịch. Hiện nay, Phú Yên đang là điểm đến được nhiều du khách chọn lựa trong hành trình du lịch vùng Nam Trung Bộ.

Được sự đồng ý của Chính phủ về việc mở cửa hoàn toàn hoạt động hàng không, xuất nhập cảnh và du lịch quốc tế, Tổng cục Du lịch Việt Nam đã thông tin những điểm mới nhất trong phương án đề xuất dự kiến áp dụng từ ngày 15/03/2022 của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, lấy ý kiến các bộ, ngành trước khi công bố chính thức. Đây là tín hiệu rất khả quan với nền kinh tế-xã hội và ngành du lịch nước nhà nhưng vẫn còn đó không ít thách thức, đòi hỏi những giải pháp phù hợp nhằm phát huy hiệu quả khi triển khai, thực hiện chủ trương kịp thời và đúng đắn này.

Nằm ở trung tâm khu vực trung du và miền núi phía Bắc, Yên Bái là trung điểm của tuyến đường cao tốc Hà Nội – Lào Cai kết nối tới vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng và vùng duyên hải Bắc Bộ; là điểm giữa của tuyến đường sắt liên vận trên hành lang giao thương kinh tế quốc tế kết nối các thành phố Hà Nội, Hải Phòng, Hồ Chí Minh qua Côn Minh, Trung Quốc đến các nước Đông Bắc Á, Châu Âu và các nước ASEAN;  giữ vai trò bản lề mở ra tiểu vùng kinh tế – du lịch trọng điểm Tây Bắc phía hữu ngạn sông Hồng và Đông Bắc phía tả ngạn sông Hồng.

Nước ta có 54 dân tộc, trong đó có 53 DTTS, với 14,123 triệu người, chiếm 14,7% dân số cả nước. Quy mô dân số không đồng đều, có 06 dân tộc trên 01 triệu người, 14 dân tộc dưới 10.000 người, trong đó có 05 dân tộc dưới 1.000 người (Ơ Đu, Brâu, Rơ Măm, Pu Péo và Si La). Hầu hết các DTTS sinh sống ở miền núi cao, biên giới, vùng sâu, vùng xa và tập trung chủ yếu ở một số tỉnh khu vực miền Bắc, Tây Nguyên, Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, Tây Nam bộ. Cùng với việc hoạch định chính sách chung cho cả nước, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm xây dựng chính sách cho vùng DTTS và miền núi, luôn xác định công tác dân tộc, đoàn kết dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng của cách mạng Việt Nam.

Đảng ta luôn nhất quán chủ trương đẩy nhanh phát triển về mọi mặt đối với vùng DTTS và miền núi, nhanh chóng thu hẹp khoảng cách phát triển so với mặt bằng chung của cả nước, tạo điều kiện thuận lợi cho 1.673 xã khu vực I, 210 xã khu vực II và 1.551 xã khu vực III, với 3.434 xã, phường, thị trấn thuộc vùng DTTS và miền núi; nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào, để từng bước nâng cao đời sống phát triển về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng. Vì vậy, ngày 21/02/2019, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 219/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Hỗ trợ thông tin tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo, với mục đích đẩy mạnh thông tin tuyên truyền về dân tộc và truyền thống lịch sử, bản sắc văn hóa dân tộc, các quan điểm đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tín ngưỡng tôn giáo, những giá trị của tôn giáo đối với đời sống xã hội, góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Một số chính sách lớn được ban hành

Trong thời kỳ đổi mới, việc nhận thức về công tác dân tộc và thực hiện chính sách dân tộc đã có bước đột phá, tạo cơ hội, tiền đề và hiệu quả về chất so với các thời kỳ trước. Từ Đại hội VI của Đảng (1986), công tác dân tộc từng bước hòa nhập vào công cuộc đổi mới đất nước. Đảng, Nhà nước đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo chặt chẽ công tác dân tộc. Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 27/11/1989 về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH) miền núi; Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) đã thể chế hóa Nghị quyết của Đảng thành Quyết định số 72-HĐBT, ngày 13/3/1990 về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển KT-XH miền núi. Hai văn kiện này đã mở đường cho sự đổi mới về công tác dân tộc. Quan điểm định hướng nội dung về công tác dân tộc trong giai đoạn mới được Đảng đánh giá, nhìn nhận một cách khoa học, khách quan: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tượng trợ giúp đỡ nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc”(2).

Tại Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng có nêu: “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực và chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ người DTTS, người tiêu biểu có uy tín trong cộng đồng các dân tộc… chống kỳ thị dân tộc; nghiêm trị những âm mưu, hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết các dân tộc” (3).

Lãnh đạo Đảng, Nhà nước dự Đại hội đại biểu toàn quốc các dân tộc thiểu số Việt Nam lần thứ II năm 2020.

Chính sách dân tộc của Nhà nước Việt Nam đã được đề cập, phát triển qua từng giai đoạn, thể hiện ở các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980, 1992, 2013. Trong Hiến pháp năm 2013, tại các Điều có nêu như: Điều 5, Khoản 2 “Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc”;  Khoản 4 “Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để tất cả các DTTS phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước”; Điều 58, Khoản 1 “…có chính sách ưu tiên chăm sóc sức khỏe cho đồng bào DTTS, đồng bào ở miền núi, hải đảo và vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn”; Điều 61, Khoản 3 “Nhà nước ưu tiên phát triển giáo dục ở miền núi, hải đảo, vùng đồng bào DTTS và các vùng có điều kiện KT-XH đặc biệt khó khăn…”; Điều 70, Khoản 5 “…Quốc hội quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước”.

Trong giai đoạn hiện nay, nhiều chính sách lớn về phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi đã được ban hành thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thông qua các văn bản chỉ đạo như Kết luận số 65-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về công tác dân tộc trong tình hình mới; các Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, XII, XIII luôn xác định công tác dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, cấp bách, là nhiệm vụ của Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Đặc biệt, Quốc hội khóa XIV đã phê duyệt Nghị quyết số 88/2019/QH14 ngày 18/11/2019 về phê duyệt Đề án tổng thể phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Nghị quyết số 120/2020/QH14 ngày 19/6/2020 của Quốc hội phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia (MTQG) phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1014/QĐ-TTg ngày 14/7/2020 về thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình MTQG phát triển KT-XH vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021-2030.

Nhiều kết quả quan trọng trong triển khai chính sách

Những năm qua, Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo và nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng về công tác dân tộc, nhất là ở vùng đồng bào DTTS và miền núi trong tình hình mới. Nhiều chương trình như Chương trình 135, cùng các chương trình MTQG, các chương trình mục tiêu về y tế, văn hóa, xã hội; các chính sách hỗ trợ nhà ở, đất ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt; cho vay vốn ưu đãi phát triển sản xuất, đào tạo nghề, giải quyết việc làm… hỗ trợ máy móc thiết bị, phân bón, giống, cây trồng, vật nuôi; giao đất, giao rừng; khuyến nông, khuyến lâm được quan tâm triển khai thực hiện. Nhờ đó, KT-XH vùng DTTS và miền núi có nhiều chuyển biến tích cực.

Theo báo cáo Tổng kết Nghị quyết số 26-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn thực hiện trên địa bàn vùng đồng bào DTTS và miền núi của Ủy ban Dân tộc cho thấy: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng DTTS và miền núi khá cao, giai đoạn 2016-2018 đạt bình quân 7% và tăng dần hằng năm, cao hơn bình quân chung của cả nước (năm 2016 tăng 6,67% nhưng đến năm 2018 tăng 7,56%, trong đó có 21/52 địa phương có tốc độ tăng trưởng bình quân GDP năm 2018 đạt trên 8%). Tỷ lệ hộ nghèo giảm nhanh hằng năm. Bình quân toàn vùng DTTS và miền núi giảm 4%/năm, riêng các xã đặc biệt khó khăn (ĐBKK) giảm trên 4%/năm trở lên; các huyện nghèo giảm 5-6%/năm trở lên. Giai đoạn 2015-2019, đã có 8/64 huyện nghèo theo Nghị quyết 36a thoát nghèo; 14/30 huyện nghèo hưởng cơ chế theo Nghị quyết 36a thoát khỏi tình trạng khó khăn, 124/139 xã, 1.322/20.176 thôn ĐBKK ra khỏi diện đầu tư của Chương trình 135; có 1.052/5.266 xã đạt chuẩn Nông thôn mới, trong đó có 106/2.139 xã ĐBKK đạt chuẩn Nông thôn mới; có 27 huyện thuộc vùng DTTS và miền núi thuộc 31 tỉnh, thành phố hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới. Đến năm 2020, cả nước có 5.506 xã (62%) đạt chuẩn Nông thôn mới.

Phó Thủ tướng Thường trực Trương Hòa Bình với các đại biểu các dân tộc thiểu số.

Công tác phát triển giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực người DTTS luôn được chú trọng quan tâm. Hiện nay, toàn quốc có 316 trường Phổ thông Dân tộc nội trú ở 49 tỉnh, thành phố với trên 109.000 học sinh; các chính sách hỗ trợ đào tạo, dạy nghề cho người DTTS được tích cực triển khai thực hiện. Giai đoạn 2016-2020, có trên 800 nghìn người DTTS được đào tạo nghề nghiệp, trong đó có khoảng 412 nghìn lao động nông thôn là người DTTS được hỗ trợ đào tạo dưới 3 tháng theo chính sách của Đề án 1956/QĐ-TTg.

Các lĩnh vực văn hóa, xã hội vùng DTTS và miền núi đã được các bộ, ngành quan tâm, đạt được những thành tựu nhất định. Đời sống văn hóa ở cơ sở có bước cải thiện rõ rệt. Các thiết chế văn hóa được tăng cường, cơ sở vật chất, một số di sản văn hóa của vùng đồng bào các dân tộc được tôn vinh. Các hoạt động giao lưu văn hóa được tổ chức tầm quốc gia, liên vùng, đã góp phần bảo tồn phát huy các giá trị văn hóa các dân tộc Việt  Nam.

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở vùng DTTS, miền núi và khu vực biên giới không ngừng củng cố và tăng cường. Lực lượng công an tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền vận động đồng bào tham gia thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Lực lượng quân đội, nòng cốt là bộ đội biên phòng đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương vùng DTTS và miền núi triển khai có hiệu quả các chương trình phát triển KT-XH. Nhiều mô hình, cách làm hiệu quả thiết thực “cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng dân tộc”… đã từng bước thay đổi “nếp nghĩ, cách làm” của đồng bào DTTS.

Trong giai đoạn 2011 - 2020, Chính phủ đã ưu tiên đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho các huyện nghèo, xã, thôn, bản ĐBKK của vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ với gần 1.700 tỷ đồng, trong đó phải kể đến các chương trình, dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng thiết yếu ở vùng đồng bào DTTS và miền núi như Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2015-2020, điển hình là Chương trình 135, Chương trình MTQG xây dựng Nông thôn mới, Chương trình 36a…

Những kết quả được nêu trên đã chứng minh công tác dân tộc, thực hiện chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và của cả hệ thống chính trị. Huy động mọi nguồn lực đầu tư để phát triển KT-XH vùng DTTS và miền núi, vùng ĐBKK, đảm bảo phát triển bền vững gắn liền với an sinh xã hội, để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào DTTS. Thu hẹp dần khoảng cách về mức sống so với vùng phát triển, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; đẩy lùi các tệ nạn xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, nhất là cán bộ DTTS đáp ứng yêu cầu phát triển trong giai đoạn mới.

Phát triển vùng DTTS và miền núi gắn liền với ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát huy tối đa sức mạnh đại đoàn kết các dân tộc, khơi dậy khát vọng, lòng tự hào dân tộc trong cộng đồng các DTTS, hướng tới mục tiêu vì một Việt Nam thịnh vượng và phát triển.

(1): Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4. tr 250, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội .

(2): Đảng cộng sản Việt Nam (2003, tr 34,35), Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa IX. Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.

(3): Đảng Cộng sản Việt Nam (2016 tr 36, 37), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.