Chính sách là học sinh đăng kí học tại bậc mầm non của trường, Khi học tiếp lên Tiểu học sẽ được giảm 10% học phí.(Lưu ý: Áp dụng với những học sinh nhập học trước Tháng 12/2023)
Ký ức về cuộc phẫu thuật kỳ tích
Trò chuyện với Kilala vào một ngày cuối tháng 9, anh Đức nhớ lại: “Đó là thời điểm sau Giải phóng, nền y tế, kinh tế của nước nhà vẫn còn eo hẹp, chưa phát triển lắm nhưng đã được hỗ trợ sâu sắc như vậy. Từ thuốc men, máy móc, tới những người bác sĩ giỏi nhất của Nhật Bản. Khi trưởng thành và nhìn lại ca mổ của mình, tôi cho đó là một sự phi thường”.
Ký ức khiến anh Đức nhớ mãi không quên về ca phẫu thuật là bản thân đã phải trải qua rất nhiều cảm xúc khác nhau. “Lúc đó, tôi vẫn còn nhỏ, chỉ mới 8 tuổi thôi, còn hồn nhiên, yêu đời lắm, chưa biết mổ là gì, đau đớn là như thế nào. Sau khi trải qua 17 tiếng đồng hồ trên bàn mổ, lúc tỉnh dậy, tôi mới cảm nhận được đau đớn và bắt đầu biết rằng mình đã thật sự có cuộc sống độc lập hoàn toàn, không còn lệ thuộc vào sự dính nhau với anh mình” – anh hồi tưởng.
Cặp song sinh Việt – Đức trước khi được phẫu thuật tách rời.
Sau ca phẫu thuật lịch sử, hai anh em được chuyển đến sống tại làng Hòa Bình - Bệnh viện Từ Dũ trong sự thiếu vắng người thân. Trong thời gian ở tại đây, sức khỏe anh trai Việt suy yếu dần rồi qua đời vào ngày 6/10/2007.
“Anh mình đã sống được với mình 19 năm. Đó là một điều quá tuyệt vời. Anh đã phải mang trên mình nhiều căn bệnh nan y cùng các thiết bị nhân tạo. Ngay từ khi sinh ra, mình và anh đã là những đứa trẻ mồ côi bố mẹ. Mình đã mất một người anh mình gắn bó như vậy nên cảm xúc lúc đó của mình khó tả lắm”, anh Đức tâm sự.
Cậu bé Đức vẫn có thể đạp xe vun vút dù khiếm khuyết chân.
Sinh ra không được lành lặn như bao đứa trẻ khác, lại sớm bị tách khỏi cha mẹ, thật khó để không cảm thấy cuộc sống bất công với mình. “Nhưng đến một lúc, tôi nghĩ nếu cứ tiếp tục tiêu cực mãi như vậy thì tương lai sẽ như thế nào, cuộc sống của mình sẽ đi về đâu”, anh nói.
“Do đó, tôi đã cố gắng gạt bỏ suy nghĩ tiêu cực đó mà hướng tới tương lai. Độc lập, vượt qua từ việc học tập cho đến sinh hoạt cho tới va chạm xã hội, bươn chải trong cuộc sống, để có được những bài học từ thất bại, rồi mới có được chút thành quả như ngày hôm nay”.
Biến những thiệt thòi thành động lực, anh luôn tâm niệm rằng cuộc sống của mình không chỉ cho chính mình mà còn phải sống vì phần của người anh song sinh đã khuất. Tính từ năm 1988 đến nay, dù đã phải trải qua trên 10 ca phẫu thuật khiến sức khỏe bị ảnh hưởng rất nhiều, nhưng anh vẫn giữ được tinh thần lạc quan khiến nhiều người nể phục.
Thậm chí trong thời gian 2 năm điều trị, dưỡng bệnh tại Bệnh viện Kobe sau cuộc đại phẫu, anh còn tự học tiếng Nhật ngay trên giường bệnh với sự hỗ trợ từ các y bác sĩ. Vốn tiếng Nhật này đã trở thành nền tảng để sau này, anh đảm đương nhiều vị trí liên quan đến kết nối Việt Nam – Nhật Bản.
Cái tên Nguyễn Đức thường được mọi người gắn với chữ “phi thường”. Không chỉ bởi ca phẫu thuật kỳ tích mang tính lịch sử, mà còn về những việc anh đã làm để cống hiến cho cộng đồng, bất chấp những khiếm khuyết về cơ thể.
Anh Đức vẫn luôn giữ tinh thần lạc quan, cống hiến hết mình cho cộng đồng và mối quan hệ Việt Nam – Nhật Bản.
Tại Nhật Bản, anh Đức đang là Đại sứ Hòa bình, giáo viên thỉnh giảng của đại học Quốc Tế Hiroshima kể từ năm 2017. Anh từng đến Nhật Bản hơn 50 lần để truyền cảm hứng cho người khuyết tật, cũng như các học sinh, sinh viên và người dân ở đây.
Anh cố gắng lan tỏa những thông điệp quan trọng tới lớp trẻ, như nỗ lực trong học tập, công việc và tinh thần trách nhiệm với cộng đồng. Đặc biệt, thông qua thân phận là nạn nhân chất độc màu da cam, anh Đức truyền đi thông điệp chiến tranh là sự mất mát rất lớn từ con người, vật chất đến hạ tầng và hy vọng các bạn trẻ sẽ luôn quý trọng nền hòa bình.
Anh Đức giảng dạy tại Đại học Hiroshima.
Còn ở Việt Nam, anh hiện giữ chức vụ Uỷ viên Ban chấp hành Hội hữu nghị Việt – Nhật và là Giám đốc cố vấn của công ty xúc tiến thương mại Việt Nam – Nhật Bản nhằm tạo điều kiện cho các bạn trẻ Việt đến Nhật lao động, sinh hoạt, có cơ hội tiếp xúc với nền văn hóa Nhật.
Năm 2012, anh sáng lập tổ chức phi lợi nhuận Duc Nihon – Vì một thế giới đẹp tươi với mục đích hỗ trợ những số phận kém may mắn trong xã hội Việt Nam và Nhật Bản, bởi theo anh có rất nhiều em mang tình trạng khuyết tật nặng hơn cả mình, không đơn giản là mất tay, mất chân mà có khi bị chết não.
Hoạt động tại Việt Nam, Duc Nihon lấy trọng tâm là những dịp lễ như ngày Vì nạn nhân chất độc màu da cam (10/08), ngày Thương binh liệt sĩ (27/07), hoặc dịp lễ 2/9, 30/4 -1/5. để cùng bạn bè, các nhà hảo tâm Nhật - Việt đóng góp cho những người gặp thiệt thòi trong cuộc sống, giúp họ có thêm động lực, chút niềm vui trong ngày lễ.
Anh Đức hướng dẫn đoàn khách tham quan Nhật Bản tại Bảo tàng Chứng tích Chiến tranh.
Chuyến đi thăm tặng quà và bánh Trung Thu cho trẻ em khuyết tật mồ côi Gò Vấp nhân dịp Tết Trung Thu 2022 của Duc Nihon.
Anh Đức cho biết cơ duyên để bản thân bắt đầu những vị trí mang tính kết nối Việt – Nhật như trên chính là từ ca phẫu thuật năm 1988. Khi nhận được quyết định bổ nhiệm, anh cảm thấy rất tự hào, đây cũng là điều kiện tốt nhất để anh giới thiệu văn hóa, con người Việt Nam đến với bạn bè Nhật Bản và quốc tế.
Anh Nguyễn Đức được trao tặng Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nhật Bản vào năm 2021.
Trước cột mốc kỷ niệm 50 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Nhật Bản – Việt Nam vào năm 2023, bản thân anh Đức cho biết vì đang là Đại sứ Hòa bình tại Nhật nên có thể sẽ tham dự nhiều sự kiện do Nhà nước, Lãnh sự quán Nhật Bản tại Việt Nam tổ chức. Còn về Duc Nihon – Vì một thế giới đẹp tươi, anh bật mí về kế hoạch tổ chức chương trình giao lưu văn hóa và hội trại để các bạn sinh viên tham quan, tìm hiểu văn hóa hai nước và một số hoạt động từ thiện khác.
Chỉ mong được nhìn thấy hai con trưởng thành
Nhắc về mái ấm hiện tại mà anh cùng vợ xây đắp, với “thành tựu” là hai đứa con song sinh Phú Sĩ, Anh Đào, anh Đức vui vẻ bật mí: “Vợ là người ngỏ lời trước với tôi!”
Nhớ lại chuyện cũ, anh trải lòng: “Thật ra, để có được cuộc sống hạnh phúc như thế này, tôi đã mất 2 năm để thuyết phục gia đình nhà vợ. Lúc đó, mẹ vợ cũng như các anh chị trong nhà nghĩ rằng chắc tôi chẳng làm được gì. Nhưng tôi đã hành động như một người bạn trai bình thường. Ở nhà vợ lúc đó, đèn hư thì tôi leo lên sửa, nóc nhà bị hư máng nước, tôi cũng leo lên mái nhà sửa, rồi chở mẹ vợ đi chợ, mua sắm, đi chùa.
Từ đó, mọi người mới suy nghĩ khác và tôi chính thức trở thành con rể. Cuộc sống sau đám cưới bận rộn với con cái, mọi người mới nhận ra rằng đó là một người đàn ông thực sự và bắt đầu đặt niềm tin vào tôi đến tận ngày hôm nay”.
Tiệc sinh nhật hai bé Phú Sĩ và Anh Đào tròn 10 tuổi.
Hiện tại, trong gia đình, vợ anh đảm nhận về nội trợ chăm sóc con cái, còn anh cáng đáng về tài chính. Nói về các con, anh Đức bật mí rằng hai bé dù ít tâm sự, nhưng khi anh bệnh, đi làm về mệt, thì hai con luôn là người động viên, chia sẻ rất nhiều, hiểu rõ sự vất vả của cha.
Chọn đặt tên hai bé là Phú Sĩ và Anh Đào, anh Đức cho biết: “Đó là cái tên rất ý nghĩa với văn hóa Nhật Bản. Nó cũng là cái tên tôi dùng để cảm ơn tới toàn thể người dân Nhật Bản bởi nếu không có bạn bè Nhật Bản thì không có Đức ngày hôm nay”.
Hai bé song sinh Phú Sĩ và Anh Đào.
Anh bộc bạch thêm: “Hai bé hiện nay đang học lớp 8 và phát triển rất tốt. Nhìn lại cuộc đời của mình đã đi được nửa đoạn đường, điều mong muốn ở đây với tôi không phải là giàu sang, phú quý gì cả, mà tôi ước muốn rằng với thể chất của mình, chỉ mong được nhìn thấy hai bé 18 tuổi trưởng thành, là một công dân có ích cho xã hội”.
Anh cho biết gia đình bốn người cũng đã đến nước Nhật vài lần. “Trong tương lai, tôi cũng mong muốn vào một lúc nào đó, cả bố mẹ và hai bé sẽ cùng nhau đi Nhật vào thời điểm mà hai bé đã trưởng thành để hai con được tận hưởng như thế nào là Nhật Bản”.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Hai anh em Nguyễn Việt (25 tháng 2 năm 1981 – 6 tháng 10 năm 2007) và Nguyễn Đức (ngày 25 tháng 2 năm 1981) là cặp sinh đôi dính liền sinh đầu tiên ở Việt Nam. Được kỷ lục thế giới ghi nhận và được hỗ trợ bởi các tổ chức như hội chữ thập đỏ và chính quyền Việt Nam, họ đã được phẫu thuật tách rời vào năm 1988. Việt qua đời vào năm 2007.[1]
Việt và Đức sinh vào ngày 25 tháng 2 năm 1981 ở tỉnh Kon Tum, Tây Nguyên, Việt Nam. Việt là anh còn Đức là em. Dòng họ của họ xác nhận họ bị dính với nhau là tác động của chất độc da cam của quân đội Hoa Kỳ sử dụng với lý do diệt cỏ trong Chiến tranh Việt Nam. Mẹ của họ trồng lúa trong vùng đất từng bị chất độc màu da cam sau khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc. Bà còn uống cả nước trong khu vực đó.
Ngày 4 tháng 10 năm 1988, Việt và Đức được phẫu thuật tách ra thành công ở Thành phố Hồ Chí Minh. Ca phẫu thuật do bác sĩ Trần Đông A làm trưởng kíp mổ và được sự giúp đỡ của Hội Chữ thập đỏ Nhật Bản. Sau đó, Việt bị hôn mê.
Sức khỏe của Việt yếu đi dần sau ca phẫu thuật. Tuy được các bác sĩ chăm sóc tận tình, sau 19 năm sống thực vật, anh đã chết vì viêm phổi vào ngày 6 tháng 10 năm 2007 ở tuổi 26.[2]
Hiện nay, Đức làm việc tại một bệnh viện ở Thành phố Hồ Chí Minh. Anh lập gia đình với Nguyễn Thị Thanh Tuyền vào ngày 16 tháng 12 năm 2006. Tháng 10 năm 2009, hai vợ chồng có hai người con sinh đôi khỏe mạnh bình thường với một bé trai và một bé gái.
Đức đặt tên hai đứa con mình là Phú Sĩ và Anh Đào để tri ân sự giúp đỡ của người Nhật.[3]
LTS: Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút ngày 19/7/2024. VietNamNet xin trân trọng đăng tải bài viết của tác giả Lưu Mai Anh, ĐH Quốc gia Hà Nội về Tổng Bí thư. Bài viết được đăng trong cuốn “Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng với tình cảm của nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế” và cuốn “Người Văn – Nghĩ và Sống” nhân kỷ niệm 50 năm tựu trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, lớp Văn khóa VIII (1963 – 1967).
Tôi nghe nói về GS Nguyễn Phú Trọng đã lâu nhưng mãi thời điểm ông là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, tôi mới có dịp gặp. Nơi làm việc của ông tại trụ sở Thành uỷ Hà Nội thật đơn sơ, bình dị. Là Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Hà Nội, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, dù khi ấy đang rất bận rộn với công tác chuẩn bị cho Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X và biết bao công việc của Thành phố, nhưng ông vẫn cởi mở, chân tình tiếp tôi như với một người đã từng thân quen từ lâu. Với chất giọng trầm ấm, ông lần lượt trao đổi theo vấn đề tôi nêu, mà lại như những câu chuyện tự sự sâu lắng…
GS Nguyễn Phú Trọng sinh ngày 14/04/1944, trong một gia đình nông dân nghèo ở xã Đông Hội, huyện Đông Anh, Hà Nội. Hai cụ thân sinh đều làm ruộng, sống ngay thẳng, nhân hậu và giữ nếp gia phong. Các anh chị em đều thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Năm 1947, ông theo gia đình tản cư lên Thái Nguyên. Năm 1950, ông hồi cư về sống trong vùng tề, hàng ngày chứng kiến biết bao cảnh đói khổ, giặc Pháp lùng sục, vây ráp, bắt bớ, tra tấn cán bộ du kích, Việt Minh. Làng xóm lúc nào cũng nơm nớp, lo sợ. Năm 1952, ông bắt đầu đi học thầy giáo trường làng - một thầy giáo già đức độ nhưng nghiêm khắc.
Năm 1954, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, quê hương giải phóng, cậu học trò Nguyễn Phú Trọng được đi học trong không khí hoà bình, phấn khởi. Lớp 2 và lớp 3 ông học ở xã nhà. Khi lên lớp 4, ông phải đi học xa, vì hai xã mới có một lớp.
Trời rét cắt da cắt thịt cũng chỉ có vài manh áo mỏng, chân đi đất, phải đốt than bỏ vào ống bơ để sưởi ấm dọc đường. Lớp học là một gian "tảo mạc" tuềnh toàng của khu đình cổ. Được cái ông học rất "sáng dạ" nên năm nào cũng đứng ở tốp dẫn đầu lớp.
Từ năm 1957 đến năm 1963, ông học trường cấp II rồi cấp III Nguyễn Gia Thiều đóng tại Gia Lâm, Hà Nội. Nhà xa, lại cách trở con sông Đuống, ông và các bạn phải đi học từ 3 - 4 giờ sáng. Mùa hè còn đỡ, mùa đông rất vất vả, nhiều hôm trời mưa, đò không chở sớm, ông đành đến lớp muộn. Được một thời gian, phải trọ học.
Vài ba anh em ở nhờ một nhà dân, tự lo cơm nước và giúp đỡ nhau học tập. Ăn uống kham khổ, thiếu thốn, nhiều lúc ông phải vừa học vừa tự lao động kiếm sống. Có lẽ vì thế mà người thanh niên Nguyễn Phú Trọng đã sớm có ý thức tự lập và có ý chí vươn lên.
Ngay từ nhỏ, ông đã rất thích văn học dân gian và thường ước mơ được theo nghề văn hoặc nghề báo. Ham học lại thông minh nên học hết lớp 10, ông thi đỗ ngay vào Khoa Văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội (khoá 1963 - 1967).
Trường sở lúc này còn phân tán. Năm đầu học ở khu Chùa Láng, năm sau chuyển về khu Mễ Trì. Từ năm 1965 đến năm 1967, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội sơ tán lên huyện Đại Từ, tỉnh Bắc Thái (nay là Thái Nguyên). Đó là giai đoạn cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đang hồi quyết liệt, nhưng thầy và trò nhà trường vẫn nêu cao quyết tâm dạy tốt và học tốt. Mỗi khi nhớ lại những tháng ngày học tập tại Đại học Tổng hợp Hà Nội, GS. Nguyễn Phú Trọng không khỏi bồi hồi xúc động pha lẫn sự tự hào.
Ông kể: "Vào một buổi sáng đẹp trời, đầu tháng 9.1963, chúng tôi tập trung ở giảng đường 1 - phố Lê Thánh Tông (tức khu 19 Lê Thánh Tông bây giờ). Trước lúc điểm danh, tôi đứng chơi dưới vườn Tao đàn. Ngước nhìn lên cổng trường ngắm mãi dòng chữ "Trường Đại học Việt Nam" sao mà cảm thấy lâng lâng, hãnh diện. Gặp nhau buổi đầu còn bỡ ngỡ, làm quen còn rụt rè, nhưng thấy bạn hữu ai cũng "siêu" cả, không học sinh giỏi nhất, nhì Văn toàn miền Bắc (lúc đó miền Nam chưa được giải phóng) thì cũng đứng đầu hàng tỉnh…".
Cuối năm 1964 - đầu năm 1965, trong không khí sục sôi đánh Mỹ, thanh niên học sinh đua nhau viết đơn bằng máu tình nguyện xin vào Nam chiến đấu, hối hả luyện tập, tập trận giả, tập hành quân, báo động, đào hào, đào hầm… Một số thanh niên lớp ông lên đường vào Nam chiến đấu, một số "phải ở lại" để tiếp tục học tập - chuẩn bị hành trang tri thức phục vụ công cuộc xây dựng đất nước.
Ông thuộc nhóm thứ hai. Mái trường đại học đã chắp cánh cho ước mơ của ông. Ông được học Văn học - ngành mà ông hằng yêu thích. Ông đặc biệt say mê đọc, học thơ ca dân gian, truyện cổ dân gian, thơ Nguyễn Du, Tản Đà, Nguyễn Bính, Tố Hữu… những hồn thơ thấm đậm chất dân gian. Ông học vào loại giỏi, lao động cừ, tích cực tham gia các hoạt động của trường, lớp và Đoàn thanh niên.
Năm 1967, với sự hướng dẫn của GS Đinh Gia Khánh, cậu sinh viên năm thứ tư Nguyễn Phú Trọng đã bảo vệ thành công khoá luận tốt nghiệp về đề tài: "Thơ ca dân gian với nhà thơ Tố Hữu" với điểm tối ưu duy nhất của khoá đó. Cùng năm này (1967), ông vinh dự được kết nạp vào hàng ngũ của Đảng Cộng sản Việt Nam, một điều rất hiếm đối với sinh viên thời bấy giờ.
Nhà trường có ý định giữ ông lại làm cán bộ giảng dạy. Ông cảm thấy rất vui và hồi hộp chờ đợi. Nhưng rồi thực tế lại diễn ra theo chiều hướng khác: ông được điều động về công tác tại Tạp chí Học tập (nay là Tạp chí Cộng sản) - cơ quan lý luận và chính trị của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ông hoàn toàn bất ngờ và không khỏi băn khoăn, lo lắng, nhưng đã là đảng viên thì phải chấp hành sự phân công của tổ chức.
Ông bắt đầu sự nghiệp ở Tạp chí Học tập bằng việc đọc, phân loại, ghi phích, làm công tác tư liệu. Ông kể: "Thú thật là những ngày đầu tôi thấy nản vì công việc khô khan, đơn điệu. Tôi ngỏ ý muốn được làm công tác nghiên cứu và biên tập về lĩnh vực văn học nghệ thuật, nhưng các đồng chí lãnh đạo trả lời là làm gì thì cũng phải làm tư liệu, bắt đầu từ tích luỹ kiến thức.
Tôi nghe thấy có lý và cố quen dần với công việc". Từ đó, cùng với việc làm tư liệu, ông đặt cho mình nhiệm vụ viết bài, bắt đầu từ những chuyên đề nhỏ. Thế rồi bài báo đầu tiên của ông đã ra đời sau hàng năm trời thai nghén, ấp ủ (Bài "Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu" đăng trên Tạp chí Văn học số 11.1968).
Được các đồng nghiệp trong tạp chí động viên, giúp đỡ tận tình, cộng với sự cầu thị, ham học hỏi, ông tiến bộ khá nhanh. Năm 1971, theo chủ trương chung, ông được cơ quan phái đi thực tế dài hạn (1 năm) ở xã Phú Lãm, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Tây. Ông ở nhà dân, ăn chung với dân, cũng "bám đội, lội đồng", tham gia lao động và sinh hoạt Đảng như một xã viên, đảng viên của xã.
Năm 1973, ông được cử đi học lớp nghiên cứu sinh Kinh tế chính trị tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc (nay là Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh). Là học viên trẻ của Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc lúc bấy giờ, nhưng ông đi học đúng vào thời điểm bố ốm nặng do bị tai biến mạch máu não, vợ mới sinh con, bản thân vừa mới phục hồi sức khoẻ sau một thời gian bị chảy máu dạ dày nên ông gặp không ít khó khăn.
Điều lý thú và bổ ích đối với ông lúc đó là được rảnh rang công việc, tập trung nghiên cứu trực tiếp các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin. Riêng bộ "Tư bản" ông đã được học, được nghiên cứu trong gần một năm. Đó là một dịp hết sức hiếm và quý để ông có thể tự trau dồi thêm kiến thức, lấy đó làm nền tảng cho sự nghiệp sau này.
Năm 1981, ông được cử sang Liên Xô làm thực tập sinh, học tập và bảo vệ luận án tiến sĩ tại Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Liên Xô (thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô). Ông lại đứng trước một loạt khó khăn mới: ngôn ngữ mới, ngành học mới; làm sao trong hai năm vừa nghe giảng, vừa thi, hoàn tất phần minimum về Xây dựng đảng, vừa viết và bảo vệ luận án tiến sĩ.
Ông thực sự lo lắng và chẳng có cách nào khác là lại phải quyết tâm "trần lưng ra chịu trận". Cuối cùng ông đã đạt được kết quả xứng đáng với công sức bỏ ra: thi đỗ phần minimum với điểm tuyệt đối và là người đầu tiên của Khoa bảo vệ thành công luận án, trước thời hạn hai tháng.
Tháng 8/1983, ông về nước, tiếp tục công tác ở Ban Xây dựng Đảng của Tạp chí Cộng sản. Được đề bạt làm Phó trưởng ban (tháng 10.1983), Trưởng ban (tháng 9.1987), Uỷ viên Ban biên tập (tháng 3.1989), Phó tổng biên tập (tháng 5.1990) rồi Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản (tháng 8/1991).
Ông còn nhớ, hồi học phổ thông ông thích nghề làm báo chỉ đơn giản là do cảm tính, thấy "được bay nhảy", "được đi đây đi đó", nhưng càng về sau này, qua thực tế công việc, ông càng hiểu nghề báo đầy đủ hơn, sâu sắc hơn và càng yêu nghề báo hơn.
Gần 30 năm công tác tại Tạp chí Cộng sản, GS Nguyễn Phú Trọng đã kinh qua nhiều công việc và đã viết, biên tập hàng trăm bài báo lý luận với nhiều thể loại khác nhau, từ xã luận, chuyên luận, bình luận, tiểu phẩm đến giới thiệu sách, giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn, phê phán các biểu hiện sai trái, tiêu cực… với tất cả sự trải nghiệm và tâm huyết của mình với nghề.
Ông bảo: "Nghề báo là nghề cao quý, nhưng vô cùng gian khổ, khó khăn. Nhà báo phải hiểu đúng và nắm rất vững chức năng, nhiệm vụ của tờ báo mà mình phụng sự, cộng tác. Những người làm ở tạp chí lý luận chính trị như Tạp chí Cộng sản càng phải có cố gắng lớn, quyết tâm cao và thực sự có lòng say mê, yêu nghề, ham học hỏi và đặc biệt là có một phương pháp làm việc đúng".
GS Nguyễn Phú Trọng đã gắn bó và có nhiều đóng góp trong quá trình xây dựng và phát triển của Tạp chí Cộng sản, nhất là từ khi ông làm Phó tổng biên tập rồi Tổng biên tập, Tạp chí đã có nhiều đổi mới cả về nội dung và hình thức. Các bài viết đã bớt tính kinh viện, bám sát các vấn đề của cuộc sống, có thêm nhiều hàm lượng thông tin; nhiều bài viết đã đi sâu vào thực tiễn, phục vụ đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Năm 1992, ông được phong học hàm phó giáo sư và 10 năm sau, ông được phong học hàm giáo sư...
Ông được cán bộ và nhân dân Hà Nội quý mến, tin tưởng bởi trí tuệ, phong cách, tinh thần làm việc, tính khiêm nhường và sự nhạy bén linh hoạt trong giải quyết công việc của ông. Nhiều người đã gửi thư bày tỏ tình cảm, sự tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, trong đó có cá nhân ông.
Những người cùng làm việc hoặc đã từng gần gũi GS Nguyễn Phú Trọng cho biết, ông sống rất giản dị, chân thành, tôn trọng, gần gũi anh em, đồng nghiệp, sâu sát thực tế, luôn lắng nghe ý kiến của quần chúng. Ông dường như chẳng có thời gian để nghỉ ngơi. Thứ bảy, chủ nhật ông "thư giãn" bằng cách đi cơ sở, xuống tiếp xúc với dân, khảo sát thực tế hoặc đi thăm bạn bè.
Báo chí đã kể nhiều về những chuyến đi của ông xuống tận địa bàn để tìm hiểu, kiểm tra và giải quyết những vấn đề khúc mắc, như: khu "xóm liều" Thanh Nhàn, khu xử lý rác thải Sóc Sơn, Công ty Vận tải xe buýt... những chuyến thăm viện dưỡng lão, trung tâm cai nghiện ma tuý, trung tâm bảo trợ xã hội, các gia đình có hoàn cảnh khó khăn...
Ông là người có ý thức giữ gìn phẩm chất, đạo đức, không lợi dụng chức quyền để vun vén riêng tư cho cá nhân và gia đình. Đi làm, trưa ông vẫn thường ăn cơm ở nhà bếp tập thể cơ quan cùng anh em; những cuộc họp lớp gặp gỡ bạn cũ ông vẫn "mày tao chi tớ", sôi nổi như thủa sinh viên.
Ông thường bảo: "Con người ta mỗi người một số phận, hôm nay làm việc này, ngày mai có thể làm việc khác, sống với nhau cốt ở cái nghĩa, cái tình". Ông còn bộc bạch: "Tôi biết có nhiều việc mình chưa làm được, nhiều dự định chưa hoàn thành, trong công tác còn nhiều khuyết điểm; ở cương vị của người chèo lái, tuyệt đối không được phép chủ quan; trái lại phải cố gắng, nỗ lực hết mình mới có thể hoàn thành nhiệm vụ".
Năm 2000, cô Đặng Thị Phúc - giáo viên đã từng dạy GS Nguyễn Phú Trọng khi ông học lớp 4 - với tất cả tình cảm trìu mến, đã viết tặng ông bài thơ có đoạn:
Nay thành cán bộ cấp cao giúp đời
Bõ công chăm sóc từ thời ấu thơ"
Đó chính là hạnh phúc của "người lái đò" như cô giáo Đặng Thị Phúc và cũng là hạnh phúc của người học trò "qua sông" đang ngày đêm miệt mài, tận tụy đem sức mình đóng góp cho đất nước, cho quê hương như GS Nguyễn Phú Trọng!
Lưu Mai Anh (ĐH Quốc gia Hà Nội)
Ngày 10/12/2015, ông Nguyễn Đức Chung được phê chuẩn chức vụ Chủ tịch UBND TP Hà Nội nhiệm kỳ 2011- 2016.
Tháng 6/2016, HĐND TP Hà Nội khóa 15 họp kỳ thứ nhất bầu chức danh Chủ tịch UBND thành phố nhiệm kỳ 2016-2021. Với hơn 96% phiếu đồng ý, Nguyễn Đức Chung tiếp tục giữ chức Chủ tịch UBND TP Hà Nội khoá mới.
Tháng 8/2020, ông Chung bị đình chỉ công tác chức vụ Chủ tịch UBND TP Hà Nội để điều tra làm rõ trách nhiệm có liên quan trong một số vụ án theo quy định của pháp luật.
Đến nay, ông Nguyễn Đức Chung liên tục nhận án tù vì liên quan đến 3 vụ án khác nhau. Tổng hợp cả 3 bản án, hình phạt chung mà ông Nguyễn Đức Chung phải thi hành là 16 năm.
Cụ thể, ngày 11/12/2020, TAND TP Hà Nội tuyên phạt ông Nguyễn Đức Chung mức án 5 năm tù vì tội Chiếm đoạt tài liệu bí mật nhà nước.
Cáo buộc cho rằng, từ tháng 7/2019- 6/2020, thực hiện đề nghị của ông Nguyễn Đức Chung, các đồng phạm của cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội đã 5 lần chiếm đoạt 9 tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ “Mật”, liên quan đến vụ án Công ty Nhật Cường.
Người đồng phạm đã chuyển cho ông Chung 2 lần, gồm 6 tài liệu thuộc danh mục bí mật nhà nước độ “Mật”.
Đến tháng 12/2021, ông Nguyễn Đức Chung tiếp tục bị TAND TP Hà Nội tuyên phạt 8 năm tù vì tội Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ.
Trong vụ án này, HĐXX cho rằng, ông Nguyễn Đức Chung đã lựa chọn xử lý nước (nhằm cải thiện môi trường nước trên địa bàn) bằng chế phẩm Redoxy 3C. Được sự hậu thuẫn, "bật đèn xanh" của ông Chung, Công ty Arktic đã độc quyền nhập chế phẩm Redoxy- 3C về Việt Nam.
Quá trình thực hiện, mua bán, chế phẩm xảy ra sai phạm, bỏ qua nhiều quy định, gây thất thoát cho nhà nước hơn 36 tỷ đồng.
Trong một diễn biến khác, ngày 31/12/2021, ông Chung nhận thêm 3 năm tù vì tội Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ vì liên quan đến vụ án Vi phạm quy định đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, xảy ra tại Sở KH&ĐT Hà Nội.
Lần này, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội bị cáo buộc đã chỉ đạo đình chỉ, dừng thực hiện gói thầu số hóa năm 2016 do Sở KH&ĐT Hà Nội làm chủ đầu tư trái quy định của pháp luật.
Sau khi dừng thầu, ông Chung yêu cầu Sở KH&ĐT Hà Nội lựa chọn công nghệ số hóa cơ sở dữ liệu doanh nghiệp đảm bảo tính tích hợp với hệ thống dùng chung của thành phố (tới thời điểm hiện nay, Hà Nội chưa hình thành cơ sở hệ thống dữ liệu dùng chung) và cho Công ty Nhật Cường thí điểm số hóa để doanh nghiệp này tham gia đấu thầu và trúng thầu.
Đồng thời, Công ty Minh Hoa (do vợ ông Chung làm Giám đốc) ký kết hợp đồng kinh tế với Công ty Nhật Cường để liên danh Nhật Cường - Đông Kinh hợp thức hóa hồ sơ năng lực để dự thầu và trúng thầu.
Hành vi vi phạm đấu thầu của ông Chung và đồng phạm làm sai lệch kết quả lựa chọn nhà thầu, dẫn đến hệ quả, mục đích, yêu cầu gói thầu trên không đạt được (chỉ có 45% tài liệu hồ sơ được đẩy lên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp), gây thiệt hại cho Nhà nước hơn 26 tỷ đồng.
Tháng 8/2020, ông Nguyễn Đức Chung bị đình chỉ công tác thì đến ngày 25/9/2020, HĐND TP Hà Nội đã bầu chức danh Chủ tịch UBND TP Hà Nội nhiệm kỳ 2016- 2021 đối với ông Chu Ngọc Anh.
Ông Chu Ngọc Anh nhận nhiệm vụ đứng đầu chính quyền Hà Nội trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát. Thời điểm đó, ông Chu Ngọc Anh gây chú ý với phát ngôn: "Nếu địa bàn Hà Nội mà bung, mà toang, hứa với các đồng chí, tôi chịu trách nhiệm".
Đến ngày 7/6/2022, sau gần 2 năm ngồi ghế Chủ tịch UBND TP Hà Nội, ông Chu Ngọc Anh bị khởi tố, bắt tạm giam để điều tra về tội Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí.
Theo kết luận của Ủy ban kiểm tra Trung ương tại kỳ họp cuối tháng 3, ông Chu Ngọc Anh có vi phạm liên quan đến vụ việc tại Công ty Cổ phần Công nghệ Việt Á (Công ty Việt Á).
Khi còn giữ chức Bộ trưởng Bộ KH&CN, ông Chu Ngọc Anh là người phê duyệt đề tài khoa học - công nghệ cấp quốc gia “Nghiên cứu, chế tạo bộ sinh phẩm RT-PCR và real-time RT-PCR phát hiện chủng virus Corona mới 2019 (2019-nCoV)”.
Bộ Công an cho biết, có căn cứ xác định dấu hiệu sai phạm trong việc quản lý, nghiên cứu, chuyển giao đề tài khoa học về sản phẩm kit xét nghiệm Covid-19 tại Bộ KH&CN và trong việc cấp phép đăng ký lưu hành, việc hiệp thương giá sản phẩm kit xét nghiệm Covid-19 với Công ty Việt Á tại Bộ Y tế.
Theo Tiến sĩ, luật sư Đặng Văn Cường, với tội danh trên, ông Chu Ngọc Anh phải đối mặt với khung hình phạt cao nhất là 10- 20 năm tù.
Đây là một vụ án gây chấn động dư luận, việc đấu tranh với tội phạm về tham nhũng và chức vụ liên quan tới phòng chống dịch như vậy là cần thiết, rất kịp thời và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật.
Luật sư Đặng Văn Cường chỉ ra rằng, nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến việc tội phạm tham nhũng và chức vụ trong thời gian qua diễn biến phức tạp.
Trong đó có nguyên nhân về quyền lợi chế độ của người hưởng lương; nguyên nhân từ đạo đức xã hội xuống cấp; nguyên nhân từ công tác cán bộ chưa tốt; nguyên nhân từ cơ chế quản lý kinh tế xã hội còn nhiều sơ hở, thiếu sót...
Để giảm bớt những vụ án tương tự, tránh thất thoát tài sản của nhà nước, thiệt hại đến uy tín của Đảng và nhà nước, gây bức xúc trong dư luận, cần phải thực hiện đầy đủ, đồng bộ các giải pháp phòng ngừa tội phạm về tham nhũng.
Trong đó cần tăng cường cơ chế quản lý kinh tế để người có chức vụ muốn tham nhũng cũng không thể tham nhũng được; cần thực hiện công khai minh bạch, tăng cường cơ chế giám sát để kịp thời phát hiện xử lý tham nhũng...